Giả sử bạn biết về kho tàng văn học của chúng tôi tường tận đến mức động đến vấn đề nào là bạn biết ngay nó được viết ở sách nào. Quy tắc này liên quan chặt chẽ đến quy tắc 2. Các nhân vật ra khỏi phạm vi cuốn sách thì không tồn tại nữa và mọi tưởng tượng của bạn về điều gì đã xảy đến với các nhân vật trước mở đầu và sau kết thúc của câu chuyện chỉ là vô nghĩa.
Nó cố gắng chứng minh điều gì đó là đúng, là sự thật, chứ không phải mọi việc sẽ tốt hơn nếu đặt trong tình huống ngược lại. Một vở kịch là một tác phẩm hư cấu và bạn nên đọc nó như đọc một câu chuyện. Từ khoa học thỉnh thoảng cũng xuất hiện nhưng thường thì tên của lĩnh vực khoa học sẽ có mặt trên tiêu đề sách, ví dụ như tâm lý học, địa chất học hay vật lý học.
Sự pha trộn đó thay đổi giữa các cuốn sách khác nhau và người đọc có nhiệm vụ phải xác định những thành phần đa dạng tạo ra cuốn sách anh ta đọc. Sau đó chú ý đến các vị trí của từ xem nó được dùng với nghĩa nào, và dựa vào ngữ cảnh để tìm ra nguyên nhân của sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa. Có một thực tế mà không phải ai cũng nhận thấy là bạn cần phải có một lượng kiến thức khá lớn nếu muốn sử dụng tốt sách tham khảo.
Những bài viết khoa học xã hội có nhiều thuật ngữ và hình ảnh ẩn dụ kèm theo xúc cảm sâu sắc thường làm độc giả lầm tưởng là dễ đọc. Để chứng minh nhận xét này, bạn phải lập luận một sự thật hoặc một khả năng lớn hơn đối lập với sự thật của tác giả. Ở một chừng mực nào đó, tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với sách triết học.
Chúng ta hy vọng sử gia phải am hiểu những gì ông ta viết. Từ trừu tượng được chúng ta sử dụng trong mọi cuộc đối thoại của cuộc sống hàng ngày. Và nếu chưa bao giờ tự hỏi bản thân câu hỏi này thì sẽ còn nhiều câu hỏi khác về cuốn sách họ không thể trả lời được.
Những người không thể diễn tả được họ thích điều gì ở cuốn tiểu thuyết có lẽ đã không đọc kỹ tác phẩm đó. Nó không những là cuốn sách được nhiều người đọc nhất mà còn là cuốn sách được đọc kỹ nhất trong tất cả các cuốn sách. Đến đây, chúng ta đã tìm ra các phần trong sách có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu; tạo được một hệ thống thuật ngữ trung lập có thể áp dụng với tất cả hoặc đa số các tác giả; tạo khung và sắp xếp một loạt câu hỏi coi như sẽ được giải đáp trong các sách; xác định và sắp xếp các vấn đề nảy sinh từ các câu trả lời khác nhau.
Không ai đưa ra những đánh giá thực tiễn nghiêm túc hay bắt tay làm một việc gì mà không có chút cảm xúc nào. Người nói thường không chỉ muốn được lắng nghe mà còn muốn được tán thưởng phần nào. Trừ khi bạn rất có kinh nghiệm, hoặc đã khá quen thuộc với chủ đề này rồi, nếu không, tốt nhất là bạn tách chúng ra làm hai bước riêng biệt.
Chiến tranh chỉ làm nền cho cả hai câu chuyện, làm bối cảnh cho phần lớn cuộc đời nhân vật, còn bản thân câu chuyện mới là cái thu hút sự chú ý của chúng ta. Những trang cuối có thể được dùng như một bảng chú dẫn những luận điểm của tác giả theo thứ tự xuất hiện trong sách. Từ những lập luận trên, chúng ta có thể rút ra các quy tắc để sử dụng từ điển một cách thông minh.
Tuy nhiên, bạn vẫn thấy được sự sắc sảo của tác giả khi khẳng định rằng một ông hoàng không nên khơi dậy cùng lúc cả sự căm ghét và khiếp sợ, và bạn cũng có thể đồng tình với ông rằng tránh xa của cải và đàn bà chính là điều kiện bắt buộc để khỏi bị căm ghét. Cách gọi nào cũng nói lên một điều rằng khi độc giả đã nắm vững cấp độ này, tức là họ đã từ chỗ không biết chữ trở thành biết chữ, ít nhất là ở giai đoạn đầu tiên. Vấn đề thứ hai là sử dụng từ đồng nghĩa.
Thông thường, trẻ em có thể thành thục bốn cấp độ đọc sơ cấp với sự giúp đỡ của các giáo viên. Sự khác biệt hay sự thay đổi này được phản ánh rõ trong các cuốn bách khoa toàn thư hiện đại. Vấn đề này đã được nói tới trong phần giải thích mối quan hệ giữa đọc kiểm soát và đọc phân tích.