Nếu chúng ta quan sát những nét chính về sự lớn lên và tiêu vong của các nền văn hóa trong quá khứ, chúng ta sẽ thấy những điều sau đây: Cuộc cách mạng Tây ban nha đẫm máu năm 1873 đã sinh ra từ những lời nói mê hoặc, đa nghĩa mà mỗi một người đều có thể hiểu theo cách của mình. Chính điều này đã làm cho Lamartine năm 1848 và Thiers năm 1871 đạt được sự tín nhiệm mà đáng lý ra tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề mới là động cơ thúc đẩy.
Lấy từng người ra một thì các nghị viên là những người thông thái với những thói quen dễ chịu. Khi Napoleon đã trở thành một con người vĩ đại, ảnh hưởng của ông ta lớn dần theo với vinh quang mà ông ta đạt được, nó có thể sánh ngang với ảnh hưởng mà những bậc thánh thần khi tác động vào tín đổ của họ vậy. Không phải cái tên của quan điểm mà cũng chẳng phải những thích nghi giả tạo của nó làm cho bản chất vấn đề thay đổi.
Sự bộc phát và trở thành hiện thực của các ý tưởng nào đó trong đám đông thường thể hiện một cách đột ngột nhanh như chớp. Sự khẳng định sau đó chỉ có ảnh hưởng thực sự, nếu như nó luôn được lặp lại, và phải cố gắng luôn sử dụng cùng một cách diễn đạt. Một nhà văn đã viết những dòng sau về tầm ảnh hưởng của ông ta:
Toàn bộ lịch sử chính trị, lịch sử tôn giáo, lịch sử nghệ thuật và văn học có vẻ như chứng minh cho thực tế đó. ” Một trí tuệ hiếm có và mãnh liệt của một Edgar Quinet cũng không làm được gì hơn. “Trong lịch sử hình như không có trường hợp nào”, ông ta đã có lý, “một chính quyền bị nhân dân căm ghét, lại tồn tại được đến những năm thế kỷ.
Một kinh nghiệm vĩ đại nhất đó là cuộc cách mạng Pháp. Khả năng hùng biện đặc biệt này, như đã nói, nó luôn áp đảo trong mọi cuộc hội họp, ở những thời điểm cấp thiết chúng chỉ có ngắn gọn và rõ ràng hơn mà thôi. Những họa sĩ hiện đại, phục chế lại những những tranh có mảng màu mờ nhạt và những tư thế cứng nhắc được vẽ bởi những con người nguyên thủy nào đó, không biết gì đến nguồn cảm hứng của chúng, họ quá tin vào tính trung thực của họ, đến nỗi người ta có lẽ sẽ mãi vẫn chỉ biết về những mặt ấu trĩ và chưa hoàn thiện của chúng, giả như nếu không có một bậc thầy xuất sắc làm sống lại loại hình nghệ thuật đó.
Đám đông tâm lý như vậy có thể được phân chia thành nhiều loại. Sự chiến thắng đó thậm chí dường như chỉ có thể có được, nếu như nó chứa đựng trong mình một sự vô nghĩa đầy bí mật nào đó. Những người Jacobin cao ngạo và chất phác nhất đã hoàn toàn nhất trí với Napoleon khi ông ta xóa bỏ mọi quyền tự do và cho biết như thế nào là bàn tay sắt của ông ta.
Toàn bộ cái đó lúc này đã trở thành, do chưa tìm ra được khái niệm nào diễn tả tốt hơn tôi tạm gọi nó là “đám đông có tổ chức”, nếu ai muốn khác cũng có thể gọi là đám đông tâm lý. Họ không có khả năng tự điều khiển mình; vì vậy lãnh đạo phục vụ họ với tư cách là người chỉ lối. Những người xã hội chủ nghĩa ở Barcelona và Andalusie rao giảng về sự độc lập không giới hạn của các đơn vị hành chính và đòi phải thành lập hàng chục ngàn đơn vị hành chính kiểu như vậy trên toàn cõi Tây ban nha, những đơn vị này có quyền tự đặt ra luật pháp riêng và đồng thời bãi bỏ công an cũng như quân đội.
Ông ta tự tán dương niềm tin mà ông ta tâm đắc nhằm truyền đạt nó vào tâm hồn người nghe. Quy luật tâm lý học về sự đồng nhất tâm hồn của đám đông Những cuộc cách mạng, giống như tôi đã kể, chỉ có thể xảy ra, nếu tâm hồn đám đông truyền cho chúng sức sống.
Tôi nhắc lại: hiệu quả tác động của những nhà lãnh đạo chủ yếu là do uy lực của họ, chứ rất ít khi do những lập luận. Trao cho con người niềm tin, có nghĩa là làm cho sức mạnh của nó tăng gấp mười lần. ” Giá như có một quyển sách thuật lại cuộc đời của tất cả những vị lãnh đạo vĩ đại thì có lẽ cũng không có nhiều những tên tuổi trong đó, nhưng cái tên này sẽ đứng ở vị trí hàng đầu của những sự kiện quan trọng nhất của văn hóa và lịch sử.
Vậy cho nên chúng ta hãy nhường lý trí lại cho các nhà triết học, nhưng chúng ta cũng không đòi hỏi ở họ phải không nên can thiệp quá nhiều vào sự điều hành những con người. Dĩ nhiên không bao giờ ai đó lại khẳng định, rằng sự giảng dạy được tiến hành tốt không thể đem lại những kết quả thực tiễn, có ích, chí ít nếu không phải trên phương diện đạo đức thì cũng có thể trên phương diện mở ra các khả năng nghề nghiệp. Những động lực gián tiếp bao gồm những yếu tố chung, là nền tàng của tất cả các đức tin và quan điểm, đó là: chủng tộc, các truyền thuyết, thời gian, các thể chế và giáo dục.