Hẳn ai cũng biết những giáo lý tôn giáo thiếu tính khoan dung như thế nào và sự ngự trị của nó đối với tâm hồn ra sao. Chương 1: Những động lực từ xa của các đức tin và quan điểm của đám đông Trong các ví dụ trên đây chúng ta đã đặc biệt quan sát riêng rẽ yếu tố thời gian là nguyên nhân chính làm thay đổi ý nghĩa của các ngôn từ.
Chừng nào một đơn vị hành chính công bố “pronunciamento” (tuyên ngôn) của nó thì vấn đề quan tâm đầu tiên sẽ là việc phá hủy các trạm điện tín và hệ thống xe lửa để cắt đứt liên lạc với các vùng xung quanh và với thủ đô Madrid. Nó là một nguyên tố cơ bản mạnh mẽ, quyết định sự giao động của tâm hồn đám đông. Ngày nay việc ban hành chính sách, nguyện vọng cá nhân của các nhà lãnh đạo và sự tranh giành giữa họ chỉ còn có rất ít tác động.
Đám đông tâm lý là một thể chất không xác định, được hình thành từ những thành phần không giống nhau, liên kết với nhau tại một thời điểm nhất định, giống hệt như sự liên kết của những tế bào sinh vật, từ đó một thể chất mới được hình thành với những tính chất hoàn toàn khác so với những tính chất của từng thành phần riêng biệt tạo nên nó. Đối với hiện tại làm như vậy nó có được tác dụng rất lớn nhưng đối với tương lai thì chẳng bị ràng buộc bởi cái gì. Chỉ có những ấn tượng người ta cấy đặt vào tâm hồn của họ mới có thế quyến rũ họ mà thôi.
Có thể dễ dàng xác định được mức độ khác nhau giữa một cá thể của đám đông và một cá thể riêng biệt, nhưng không thể dễ dàng phát hiện ra nguyên nhân của sự khác nhau đó. Nhân danh chúng, đền đài ở Chaldäas và Aicập, các nhà thờ thời trung cổ đã mọc lên sừng sững, nhân danh chúng khắp châu u trước đây một thế kỷ đã bị đảo lộn. Rõ ràng là chúng ta đã phải chịu cái giá quá đắt, nhưng một phần lớn ảnh hưởng của lãnh đạo liên quan tới sự chiều theo ý kiến quần chúng, là cái mà trong các vấn đề thuộc địa hoàn toàn không phải là ý kiến của ngày hôm nay.
Nhưng những gì chúng ta biết được từ tâm lý học đám đông đã chỉ cho thấy, đám đông về điểm này đã rất nhầm lẫn như thế nào. Ta thấy, như đã trình bày trên đây, rằng có thể có rất nhiều yếu tố tham dự vào sự hình thành nên uy lực. Bước đi này này không được đánh dấu bởi quyền phổ thông đầu phiếu, là cái quyền một thời gian dài có rất ít tác dụng và buổi đầu rất dễ bị lèo lái.
Đám đông, không có khả năng xem xét và suy nghĩ một cách lô gic, với họ chẳng có gì là không có thể. Chỉ tính riêng trong bộ giáo dục đã có đến hàng hai chục ngàn giáo viên không có công việc, họ chê các công việc trên đồng ruộng hoặc ở công xưởng và chỉ cố bám cho được nhà nước để có thể sống qua ngày. Khoảng cuối thế kỷ 18, do có hiện tượng đập phá các nhà thờ, săn đuổi và chặt đầu giáo sĩ, đàn áp các biểu tượng công giáo nói chung, người ta đã tin rằng như vậy những ý tưởng tôn giáo cũ đã bị tước bỏ hết quyền lực; thế nhưng chỉ vài năm sau, dưới áp lực của đòi hỏi chung, các biểu tượng tôn giáo bị xóa bỏ trước đây đã được khôi phục trở lại[8].
Tiếc rằng các truyền thuyết tự nó không tồn tại lâu dài. Không có một ý tưởng, không có một hành vi, không có một sáng kiến - đó là sự buồn tẻ ở mức độ cao nhất. Tất nhiên chúng vẫn còn là một quyền lực quan trọng, nhưng rõ ràng bởi vì nó chỉ thuần túy là sự phản ánh lại dư luận quần chúng và sự biến đổi không ngừng của họ.
Cái không thực luôn có quyền đứng trước cái thực. Hiện tượng như vậy không chỉ xuất hiện ở đám đông. Sự cố gắng của những người xã hội chủ nghĩa trong việc liên kết rộng rãi các đại diện của giới công nhân của tất cả các nước lại với nhau, luôn kết thúc với một sự bất hòa kịch liệt.
Đến chừng nào nó không còn quyền lực nữa, tất cả những gì được nó chống đỡ sẽ sụp đổ hoàn toàn. Tuy nhiên sau đó nhất thiết phải làm công tác chuẩn bị cho đám đông về những tình cảnh nhất định nào đó và đặc biệt là kẻ muốn lôi kéo họ phải có một tính cách mà lát sau tôi sẽ gọi là sự ảnh hưởng để phân tích. Khi niềm tin đó chết đi, cũng là lúc Roma lụi tàn.
Từ nhận thức về chúng, rõ ràng bằng những cách thức thông thường người ta có thể xác định ra các phương tiện để tác động vào tâm hồn đám đông. Những tâm hồn của đám đông được chuẩn bị như vậy, cho nên rất dễ bị khích động bởi những động lực trực tiếp, ví dụ như những lời hiệu triệu của các nhà diễn thuyết và sự phản kháng của triều đình chống lại cả những cải cách không quan trọng. Lối suy nghĩ rằng các thể chế có thể giúp loại bỏ những điều tệ hại của xã hội, sự tiến bộ của một dân tộc là kết quả của sự hoàn thiện hiến pháp và chính quyền, và những thay đổi xã hội có thể đạt đến qua các sắc lệnh, là kiểu suy nghĩ nói chung vẫn còn rất phổ biến.